Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin góp phần phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi
12:00 PM 20/08/2021 | Lượt xem: 760 In bài viết |Với mục tiêu hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng DTTS với các địa bàn trong cả nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH); chủ động phòng chống các tình huống gây mất an ninh, trật tự vùng đồng bào DTTS. Ngày 12/4/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 414/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng CNTT hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào DTTS Việt Nam giai đoạn 2019 - 2025” (Đề án 414).
Trong những năm qua, với sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách dân tộc, khả năng tiếp cận và ứng dụng CNTT trong vùng đồng bào DTTS đã được cải thiện, song do nhiều nguyên nhân nên vẫn còn khoảng cách xa so với các khu vực phát triển, đòi hỏi cần thực thi nhiều giải pháp đồng bộ để thúc đẩy khả năng ứng dụng CNTT vào phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh trật tự trong vùng DTTS.
Chênh lệch rõ rệt về trình độ phát triển CNTT giữa vùng DTTS và khu vực phát triển
Theo kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 DTTS, tính đến thời điểm 01/10/2019 cho thấy, cùng với sự tăng cao của tỷ lệ hộ sử dụng máy vi tính và điện thoại, tỷ lệ hộ được tiếp cận Internet của đồng bào vùng DTTS đã được cải thiện đáng kể, chiếm 61,3% tổng số hộ DTTS, tăng tới 54,8 điểm phần trăm so với năm 2015 (6,5%). Có thể nói đây là bước phát triển rất mạnh trong tiếp cận thông tin ở vùng DTTS. So sánh tỷ lệ hộ sử dụng Internet theo vùng KT-XH cho thấy tỷ lệ này cao nhất thuộc về vùng Đông Nam bộ (78,3%) và thấp nhất thuộc về vùng Tây Nguyên (46,1%). Có 9/53 DTTS có tỷ lệ hộ gia đình sử dụng Internet dưới 30% như La Hủ 10,2%, Brâu 15,1%, Chứt 21,2%, Mảng 23,3%, Cống 24,3%, Bru Vân Kiều 25,6%, Xơ Đăng 28,5%, Ba Na 28,5% và Si La 29,6%.
Tỷ lệ hộ gia đình DTTS sử dụng máy tính chia theo giới tính chủ hộ, vùng KT-XH, năm 2019 (nguồn: Số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019, UNWomen).
Kết quả điều tra 53 DTTS năm 2019 cho thấy, có 10,3% hộ gia đình DTTS có sử dụng máy vi tính, tăng 2,6 điểm phần trăm so với năm 2015 (7,7%). Trong các vùng KT-XH, Tây Nguyên có tỷ lệ hộ gia đình DTTS có sử dụng máy vi tính thấp nhất 5,0% và Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 5,7%. Có tới 29/53 DTTS có tỷ lệ hộ gia đình sử dụng máy vi tính dưới 5% như Xinh Mun 1,1%, Khơ Mú 1,3%, Rơ Măm 1,5%, La Hủ 1,6%, Ba Na 1,8% và Chứt 1,9%. Sự khác biệt về tỷ lệ hộ sử dụng máy vi tính giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn rất rõ ràng, tương ứng là 33,3% so với 6,7%. Điều này phản ánh sự chênh lệch về trình độ phát triển về CNTT giữa hai khu vực.
Trong sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của xã hội hiện đại, các phương thức truyền thông nói chung và cho đồng bào DTTS nói riêng rất đa dạng, song tựu chung lại có 3 phương thức cơ bản, đó là: Gặp mặt trực tiếp giữa người truyền thông và đối tượng truyền thông; tiếp xúc từ xa có trung gian hỗ trợ (thư điện tử, điện thoại, diễn đàn trên Internet…); tiếp xúc hoàn toàn bằng công cụ báo chí, phát thanh, truyền hình không có sự tham gia trực tiếp của con người.
Cũng theo một khảo sát gần đây của Trung tâm Thông tin - Ủy ban Dân tộc thì truyền hình là kênh thông tin được đồng bào DTTS sử dụng nhiều nhất, với tần suất 85,7%, tiếp đó là Internet 54,8%, báo chí 22,2%, radio 11,9%...
Qua đó có thể thấy rằng, với hạ tầng CNTT chưa được xây dựng đầy đủ đã hạn chế khả năng truy cập, tiếp cận và khai thác thông tin trên Internet của đồng bào DTTS. Các chương trình, đề án, dự án của Nhà nước hầu như chỉ tập trung vào phát triển KT-XH mà chưa có các ứng dụng CNTT dành riêng, phù hợp với trình độ, nhận thức, ngôn ngữ, tập quán của đồng bào DTTS. Những điều này trở thành rào cản lớn đối với việc đồng bào DTTS tiếp cận và tiếp nhận thông tin.
Các chủ trương lớn sắp tới sẽ tháo gỡ rào cản tiếp cận CNTT của đồng bào DTTS
Triển khai Quyết định số 414/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng CNTT hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào DTTS Việt Nam giai đoạn 2019 - 2025”; Nghị quyết số 88 /2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTT và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, và Nghị quyết số 120 /2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030 về Ủy ban Dân tộc đã đề xuất nhiệm vụ “Ứng dụng CNTT hỗ trợ phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào DTTS và miền núi” trong Tiểu dự án 1, thuộc Dự án 10 “Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào DTTS và miền núi. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình”.,.
Mục tiêu của nhiệm vụ này là đến năm 2025 và 2030, hỗ trợ đồng bào DTTS ứng dụng CNTT nhằm góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng đồng bào DTTS và miền núi với các địa bàn trong cả nước, thúc đẩy phát triển KT-XH; chủ động phòng chống các tình huống gây mất an ninh trật tự vùng đồng bào DTTS và miền núi; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương.
Trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh chuyển đổi sang Quốc gia số, Chính phủ số và ứng dụng công nghệ số vào rộng rãi các lĩnh vực của đời sống xã hội thì với vùng DTTS và miền núi nói riêng, việc ứng dụng CNTT còn có ý nghĩa to lớn trong việc hỗ trợ cảnh báo thiên tai, thảm họa, cứu hộ, cứu nạn; chẩn đoán, khám chữa bệnh từ xa; kết nối, phát triển thương mại, văn hóa, du lịch… Vì vậy, có thể thấy, với những chủ trương, chính sách lớn trong thời gian tới, sẽ là cơ hội để đồng bào vùng DTTS và miền núi tiếp cận CNTT, tiếp cận những tiến bộ của xã hội một cách nhanh nhất, qua đó từng bước thu hẹp dần khoảng cách với các khu vực phát triển trên cả nước.
Xuân Thường