Giai đoạn 2021-2025: Tăng cường đầu tư cho những địa bàn khó khăn
02:55 PM 20/09/2021 | Lượt xem: 1922 In bài viết |Trong giai đoạn 2021-2025, Chính phủ định hướng giảm số lượng xã, thôn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN), giảm số lượng xã, thôn đặc biệt khó khăn (ĐBKK) nhằm đạt mục tiêu tăng đầu tư cho những địa bàn khó khăn hơn và phù hợp với điều kiện ngân sách nhà nước. Các tiêu chí được quy định rõ tại Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg về tiêu chí phân định vùng đồng bào DTTS&MN theo trình độ phát triển giai đoạn 2021 - 2025.
Theo tiêu chí phân định mới, xã khu vực I có 1.592 xã, tăng 339 xã do đã được đầu tư, hoàn thành tiêu chí nông thôn mới. Xã khu vực II còn 281 xã, giảm 1.673 xã, tập trung chủ yếu ở các xã trước đây không có hoặc có rất ít đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống thành cộng đồng. Xã khu vực III là 1.542 xã, giảm 398 xã do được Nhà nước tập trung đầu tư, phát triển thành các xã khu vực II, khu vực I. Tổng số thôn ĐBKK của xã khu vực II là 1.668 thôn.
Theo các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, so với các lần phân định trước, lần phân định này có nhiều điểm mới, dẫn đến giảm số lượng xã, thôn vùng DTTS&MN; giảm số lượng xã, thôn ĐBKK nhằm đạt mục tiêu tăng đầu tư cho những địa bàn khó khăn hơn và phù hợp với điều kiện ngân sách nhà nước.
Từ năm 1996 đến nay, vùng DTTS&MN nước ta đã có 4 lần phân định thành 3 khu vực (I, II, III) theo trình độ phát triển. Theo đó, xã khu vực III là xã đặc biệt khó khăn, xã khu vực II là xã còn khó khăn và xã khu vực I là xã bước đầu phát triển. Những cách phân định cũ đều không đề cập đến tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số. Do đó xã vùng DTTS&MN bao gồm cả các xã không có hoặc có rất ít đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Chính vì thế, nguồn lực thực hiện chính sách dân tộc bị dàn trải, thiếu tập trung, thậm chí không có đồng bào DTTS nhưng vẫn được thụ hưởng chính sách dân tộc.
Quyết định 33/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã lượng hóa tiêu chí các xã, phường, thị trấn DTTS phải có tỷ lệ số hộ DTTS trong tổng số hộ dân sinh sống ổn định thành cộng đồng từ 15% trở lên. Các thôn, bản, làng, phum, sóc, xóm, ấp, khu dân cư, tổ dân phố và tương đương có tỷ lệ số hộ DTTS trong tổng số hộ dân sinh sống ổn định thành cộng đồng từ 15% trở lên.
Địa bàn ĐBKK được xác định là các xã, thôn vùng DTTS&MN có tỷ lệ hộ nghèo cao, kinh tế - xã hội chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạ tầng cơ sở yếu kém, nhất là về giao thông, điều kiện khám, chữa bệnh, học tập của người dân còn khó khăn… Đối với địa bàn này, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với những dịch vụ cơ bản để từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển với các vùng, miền khác.
Địa bàn còn khó khăn là các xã có đông đồng bào DTTS sinh sống thành cộng đồng, còn thiếu hụt một hoặc một số điều kiện về cơ sở hạ tầng và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Đối với địa bàn này, Nhà nước chỉ hỗ trợ tạo sinh kế, đầu tư bổ sung một phần hạ tầng còn thiếu hụt, chủ yếu là thực hiện các chính sách đối với con người.
Địa bàn bước đầu phát triển là các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới hoặc xã có tỷ lệ hộ nghèo dưới 10%. Đối với các xã này, cơ bản thực hiện chính sách đối với con người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo.
Theo Ủy ban Dân tộc, sau Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, sẽ có 398 xã và 2.667 thôn không còn thuộc diện ĐBKK và thôi không thụ hưởng hỗ trợ của Nhà nước; dự kiến vào khoảng 1.200 tỷ đồng, tương đương gần 30% ngân sách đầu tư hiện nay trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Nguồn lực nhà nước sẽ có điều kiện tập trung đầu tư cho những nơi khó khăn hơn, người nghèo là phù hợp với thực tế ngân sách và tinh thần hỗ trợ nhau cùng phát triển; là điều kiện để nâng định mức, ưu tiên đầu tư cho những địa bàn ĐBKK có đông đồng bào DTTS sinh sống.
PV