Một số chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc đã thúc đẩy vùng đồng bào DTTS và miền núi từng bước phát triển kinh tế ổn định cuộc sống

03:35 AM 27/08/2021 |   Lượt xem: 52787 |   In bài viết | 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại xã Dur Kmăl (Krông Ana, Đắk Lắk), năm 2018 (Ảnh: TTXVN).

Nước ta có 54 dân tộc, trong đó có 53 DTTS, với 14,123 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Quy mô dân số không đồng đều, có 06 dân tộc trên 01 triệu người, 14 dân tộc dưới 10.000 người, trong đó có 05 dân tộc dưới 1.000 người (Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo và Si La). Hầu hết các DTTS sinh sống ở miền núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa và tập trung chủ yếu ở một số tỉnh khu vực miền Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nam bộ. Cùng với việc hoạch định chính sách chung cho cả nước, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xây dựng chính sách cho vùng DTTS và miền núi, luôn xác định công tác dân tộc, đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Đảng ta luôn nhất quán chủ trương đẩy nhanh phát triển về mọi mặt đối với vùng DTTS và miền núi, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho 1.673 xã khu vực I, 210 xã khu vực II và 1.551 xã khu vực III, với 3.434 xã, phường, thị trấn thuộc vùng DTTS và miền núi; nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, để từng bước nâng cao đời sống phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Vì vậy, ngày 21/02/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 219/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ thông tin tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo, với mục đích đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về dân tộc và truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc, các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, những giá trị của tôn giáo đối với đời sống xã hội, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Một số chính sách lớn được ban hành

Trong thời kỳ đổi mới, việc nhận thức về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã có bước đột phá, tạo cơ hội, tiền đề và hiệu quả về chất so với các thời kỳ trước. Từ Đại hội VI của Đảng (1986), công tác dân tộc từng bước hòa nhập vào công cuộc đổi mới đất nước. Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác dân tộc. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) miền núi; Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã thể chế hóa Nghị quyết của Đảng thành Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13/3/1990 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển KT-XH miền núi. Hai văn kiện này đã mở đường cho sự đổi mới về công tác dân tộc. Quan điểm định hướng nội dung về công tác dân tộc trong giai đoạn mới được Đảng đánh giá, nhìn nhận một cách khoa học, khách quan: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tượng trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc”(2).

Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng có nêu: “Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc… chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc” (3).

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020.

Chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam đã được đề cập, phát triển qua từng giai đoạn, thể hiện ở các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. Trong Hiến pháp năm 2013, tại các Điều có nêu như: Điều 5, Khoản 2 “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”;  Khoản 4 “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”; Điều 58, Khoản 1 “…có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn; Điều 61, Khoản 3 “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào DTTS và các vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn…”; Điều 70, Khoản 5 “…Quốc hội quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước”.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiều chính sách lớn về phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi đã được ban hành thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các văn bản chỉ đạo như Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII luôn xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, Quốc hội khóa XIV đã phê duyệt Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1014/QĐ-TTg ngày 14/7/2020 về thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Nhiều kết quả quan trọng trong triển khai chính sách

Những năm qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào DTTS và miền núi trong tình hình mới. Nhiều chương trình như Chương trình 135, cùng các chương trình MTQG, các chương trình mục tiêu về y tế, văn hóa, xã hội; các chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; cho vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm… hỗ trợ máy móc thiết bị, phân bón, giống, cây trồng, vật nuôi; giao đất, giao rừng; khuyến nông, khuyến lâm được quan tâm triển khai thực hiện. Nhờ đó, KT-XH vùng DTTS và miền núi có nhiều chuyển biến tích cực.

Theo báo cáo Tổng kết Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn thực hiện trên địa bàn vùng đồng bào DTTS và miền núi của Ủy ban Dân tộc cho thấy: Tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng DTTS và miền núi khá cao, giai đoạn 2016-2018 đạt bình quân 7% và tăng dần hằng năm, cao hơn bình quân chung của cả nước (năm 2016 tăng 6,67% nhưng đến năm 2018 tăng 7,56%, trong đó có 21/52 địa phương có tốc độ tăng trưởng bình quân GDP năm 2018 đạt trên 8%). Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hằng năm. Bình quân toàn vùng DTTS và miền núi giảm 4%/năm, riêng các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) giảm trên 4%/năm trở lên; các huyện nghèo giảm 5-6%/năm trở lên. Giai đoạn 2015-2019, đã có 8/64 huyện nghèo theo Nghị quyết 36a thoát nghèo; 14/30 huyện nghèo hưởng cơ chế theo Nghị quyết 36a thoát khỏi tình trạng khó khăn, 124/139 xã, 1.322/20.176 thôn ĐBKK ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135; có 1.052/5.266 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, trong đó có 106/2.139 xã ĐBKK đạt chuẩn Nông thôn mới; có 27 huyện thuộc vùng DTTS và miền núi thuộc 31 tỉnh, thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2020, cả nước có 5.506 xã (62%) đạt chuẩn Nông thôn mới.

Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình với các đại biểu các dân tộc thiểu số.

Công tác phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực người DTTS luôn được chú trọng quan tâm. Hiện nay, toàn quốc có 316 trường Phổ thông Dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố với trên 109.000 học sinh; các chính sách hỗ trợ đào tạo, dạy nghề cho người DTTS được tích cực triển khai thực hiện. Giai đoạn 2016-2020, có trên 800 nghìn người DTTS được đào tạo nghề nghiệp, trong đó có khoảng 412 nghìn lao động nông thôn là người DTTS được hỗ trợ đào tạo dưới 3 tháng theo chính sách của Đề án 1956/QĐ-TTg.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội vùng DTTS và miền núi đã được các bộ, ngành quan tâm, đạt được những thành tựu nhất định. Đời sống văn hóa ở cơ sở có bước cải thiện rõ rệt. Các thiết chế văn hóa được tăng cường, cơ sở vật chất, một số di sản văn hóa của vùng đồng bào các dân tộc được tôn vinh. Các hoạt động giao lưu văn hóa được tổ chức tầm quốc gia, liên vùng, đã góp phần bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc Việt  Nam.

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng DTTS, miền núi và khu vực biên giới không ngừng củng cố và tăng cường. Lực lượng công an tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền vận động đồng bào tham gia thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Lực lượng quân đội, nòng cốt là bộ đội biên phòng đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương vùng DTTS và miền núi triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển KT-XH. Nhiều mô hình, cách làm hiệu quả thiết thực “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc”… đã từng bước thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” của đồng bào DTTS.

Trong giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đã ưu tiên đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho các huyện nghèo, xã, thôn, bản ĐBKK của vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ với gần 1.700 tỷ đồng, trong đó phải kể đến các chương trình, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào DTTS và miền núi như Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015-2020, điển hình là Chương trình 135, Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới, Chương trình 36a…

Những kết quả được nêu trên đã chứng minh công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Huy động mọi nguồn lực đầu tư để phát triển KT-XH vùng DTTS và miền núi, vùng ĐBKK, đảm bảo phát triển bền vững gắn liền với an sinh xã hội, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS. Thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Phát triển vùng DTTS và miền núi gắn liền với ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, khơi dậy khát vọng, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các DTTS, hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam thịnh vượng và phát triển.

- - - - -

(1): Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4. tr 250, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội .

(2): Đảng cộng sản Việt Nam (2003, tr 34,35), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

(3): Đảng Cộng sản Việt Nam (2016 tr 36, 37), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Kim Hằng